Viện hàn lâm Thụy Điển. |
Hồi năm 1991, ông Giám đốc thư viện là Anders Rydberg tiếp tôi một cách niềm nở. Ông cao xương xương, trạc ngoài ngũ tuần, có lối nói sôi nổi, dứt khoát, hấp tấp, khác hẳn sự trầm tĩnh của đa số người Thụy Điển. Ông tỏ ra rất lịch duyệt. Dĩ nhiên, việc đầu tiên là ông đưa tôi đi xem Viện hàn lâm Thụy Điển, phòng họp cổ kính lộng lẫy vàng và kim nhũ, là nơi vua Thụy Điển trao giải thưởng Nobel hàng năm.
Viện hàn lâm Thụy Điển do vua Gustave III thành lập cách đây 200 năm (1786) theo mẫu Viện hàn lâm Pháp. Nhiệm vụ chính của nó là bảo vệ và phát triển ngôn ngữ Thụy Điển, đưa văn học dân tộc lên ngang tầm với văn học châu Âu. Viện có 18 vị viện sĩ, chịu trách nhiệm soạn một bộ từ điển, một bộ ngữ pháp, mở những kỳ thi văn hóa.
Sau khi ông Nobel để lại chúc thư, Viện hàn lâm có thêm nhiệm vụ lập ra ủy ban Nobel, hàng năm chuẩn bị danh sách các nhà văn xứng đáng để giúp tổ chức Nobel (Fondation Nobel) quyết định giải, trao vào ngày 10 tháng Chạp, ngày mất của Nobel. Dĩ nhiên Viện còn trao hàng loạt giải thưởng riêng.
Hằng năm, Viện họp một buổi công khai có tính chất nghi lễ; sau khi Hoàng gia và 500 khách đã yên vị, các vị viện sĩ ngồi vào những chiếc ghế bành có đánh số; người ta đọc những bài diễn văn chính thức; giới thiệu viện sĩ mới, rồi đọc tên những người được các giải thưởng trong năm.
Thư viện Nobel là thư viện lớn nhất Bắc Âu về văn học hiện đại, có chừng 20 vạn cuốn sách.
Alfed Nobel - một triệu phú yếm thế mà từ thiện
Ông Alfred Nobel từng nói: “Tôi thích để ý đến dạ dày của người sống hơn là sự sùng bái những người chết dưới hình thức tượng đài”.
Alfred Nobel sinh năm 1833 ở Stockholm. Ông đã sống và đi rất nhiều nước. Gia đình ông gốc ở làng Nobbelov tại miền Nam Thụy Điển, do đó có họ Nobel.
Người ông của ông là một học giả uyên bác cỡ quốc tế. Bố là một nhà sáng chế công nghiệp, bị phá sản phải chạy sang Nga. Sau thời thơ ấu nghèo khổ sống với mẹ ở Thụy Điển, ông cùng cả nhà đoàn tụ với bố ở Nga. Bố ông đã trở thành một nhà công nghiệp có uy tín làm việc cho Nga hoàng trong ngành chế tạo mìn.
Ông được đào tạo rất kỹ về hóa, nói thông thạo bốn ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức và Nga. Trong hai năm, ông được đi tham quan nghiên cứu ở châu Âu và ở Mỹ, rồi về làm việc ở phòng nghiên cứu các chất nổ của bố ở gần Stockholm. Ông làm việc không mệt mỏi và xây dựng rất nhiều viện nghiên cứu chất nổ đặt ở Anh, Đức, Pháp, Italy và Thụy Điển.
Phát minh lớn nhất của ông là thuốc nổ Dynamit (1866), là hợp chất nitroglycerin trộn với một chất xốp khiến cho việc sử dụng đỡ nguy hiểm. Sáng chế này mang lại một cuộc cách mạng kỹ thuật trong việc khai thác mỏ, làm đường xá và đào hầm giao thông. Ông còn có nhiều sáng chế trong nhiều lĩnh vực hóa học (các chất tổng hợp, cao su và da nhân tạo, viễn thông, hệ thống báo động...).
Ông đã đăng ký 355 bằng sáng chế và khai thác một phần những sáng chế ấy trong 90 công ty đặt ở khoảng 20 nước. Ông tiên phong trong việc thành lập công ty đa quốc gia. Chính tiền lời của những công ty đã giúp ông có tiền để trao những giải thưởng mang tên ông. Hai người anh trai ở lại Nga để quản lý công ty của bố, cũng là những nhà sáng chế cộng tác đắc lực với ông.
Cái vĩ đại của Nobel xuất phát từ sự đa dạng trong tính cách con người. Ông là nhà khoa học, nhà sáng chế có biệt tài, nhà kinh doanh quốc tế có đầu óc tiến bộ, đồng thời là nhà văn hóa có tư tưởng nhân đạo. Theo ý kiến của nhà viết tiểu sử của ông, ngay từ thời niên thiếu, ông đã là "một chàng trai sớm phát triển, đặc biệt thông minh nhưng rất nhạy cảm, mơ mộng và thích nội quan”.
Hình như suốt đời ông không tìm thấy hạnh phúc. Ông tự coi mình là "một đứa trẻ đẻ non khốn khổ". Mọi người đều công nhận ông là người dí dỏm, thông minh, lịch duyệt; vậy mà ông luôn u buồn, thường ưa giễu cợt bản thân. Có một nỗi yếm thế thể hiện trong những sáng tác của ông.
Nobel là một người cô đơn, chưa từng có gia đình, nhà riêng thật sự; ông là "kẻ lang thang giàu nhất châu Âu". Ông nói: "Nhà tôi là nơi tôi làm việc và tôi làm việc khắp mọi nơi". Có lúc, ông có nhà ở sáu nước. Có lẽ Paris, nơi ông làm việc và ở trong gần hai chục năm, là thành phố gần gũi với ông nhất, trừ ngôi nhà ở Thụy Điển vào những năm cuối đời.
Nobel chưa bao giờ lấy vợ. Ông rất yêu mẹ, luôn quan tâm chăm sóc mẹ. Khi đứng tuổi, hình như ông cũng kết giao rất thân với nữ nam tước người Áo Bertha von Suttner, người tiên phong trong phong trào đấu tranh cho hòa bình. Trong một thời gian, bà là thư ký riêng của Nobel, bà rất có cảm tình với ông và có thể lấy ông nếu bà chưa yêu người khác. Thất vọng, ông lao vào cuộc tình duyên với Sophie Hess, một thiếu nữ Áo trẻ hơn ông 23 tuổi. Cuộc tình kéo dài 18 năm chỉ mang lại cho ông nỗi thất vọng vì không nâng nổi người bạn tình lên ngang tầm trí thức và xã hội của ông. Đoạn tuyệt càng làm tăng thêm nỗi u buồn bẩm sinh nhưng đồng thời giúp ông trở lại với sự bình tĩnh tâm hồn. Ông chết trong cô đơn tại Sanremo ở Italy, ngày 10 tháng Chạp năm 1896, vào tuổi 63.
(Còn tiếp)
| Vài ý kiến khác về văn học Thụy Điển [Kỳ 2] Thụy Điển là một nước ở xa tít Bắc Âu, dường như cô đơn trong giá lạnh, đất rộng người thưa. Trước đây, văn học ... |
| Văn học thiếu nhi Thụy Điển [Kỳ 1] Những năm 60 và 70 của thế kỷ XX, sách viết cho thanh thiếu niên Thụy Điển thành hàng văn hóa xuất khẩu, do chúng ... |
| Văn học thiếu nhi Thụy Điển [Kỳ 2] Giai đoạn ba của văn học thiếu nhi Thụy Điển là giai đoạn “văn học hiện đại” bắt đầu từ 1945, sau Thế chiến II. ... |
| Một thoáng văn học Thụy Điển: Thư viện Hoàng gia Thư viện Hoàng gia (Kungl Biblioteket), ở Stockholm nguyên là thư viện riêng của các vua và nữ vương của dòng họ Vasa. |
| Một thoáng văn học Thụy Điển: Swedenborg, vị tiên tri phương Bắc [Kỳ 1] “Triết học và tư duy Thụy Điển nói chung được đánh dấu bởi chủ nghĩa kinh nghiệm, logic và chịu ảnh hưởng thực chứng luận”, ... |