📞

Bộ trưởng Xuân Thủy - Trưởng đoàn xuất sắc tại Hội nghị Paris về Việt Nam

Đại sứ Phạm Ngạc 20:14 | 05/09/2022
Ngoại giao Việt Nam đang tỏa sáng, lúc này rất cần nêu lên những đóng góp của nền ngoại giao Hồ Chí Minh và những người có công lớn như cố Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy, cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Tôi may mắn được giúp việc họ nên xin ghi lại những kỷ niệm với Bộ trưởng Xuân Thủy.
Ông Xuân Thủy (ngoài cùng bên trái) và bà Nguyễn Thị Bình đón Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh tại sân bay Paris. (Ảnh: tư liệu)

Vận dụng tối ưu phương châm

Sau Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, chính quyền Mỹ phải chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Paris để rút quân về nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đoàn do Bộ trưởng Xuân Thủy dẫn đầu ngày 7/5/1968 đến Paris. Bộ trưởng Xuân Thủy ghi lại cảm hứng:

“Hôm nay tôi cũng đến Paris,

Nắng mới tươi thêm lá quốc kỳ.

Độc lập, hòa bình tranh thắng lợi,

Nhớ lời Bác dặn lúc ra đi”.

Đàm phán giữa đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đoàn Mỹ do Đại sứ Averell Harriman dẫn đầu từ ngày 13/5-1/11/1968, trước hết Mỹ phải chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, sau đó bàn về Hội nghị bốn bên có thêm Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Cộng hòa Việt Nam cùng dự.

Mới đầu Đại sứ kỳ cựu Mỹ Harriman (1891-1986), đã từng đàm phán với ông Stalin sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chưa chịu chấm dứt ném bom miền Bắc. Qua kiên quyết đấu tranh trên bàn hội nghị và trong dư luận quốc tế, Mỹ cuối cùng mới đồng ý chấm dứt ném bom miền Bắc và họp Hội nghị bốn bên. Nhân câu chuyện Đại sứ Harriman nói bị điếc tai trái, Bộ trưởng Xuân Thủy bình luận vui: “Bây giờ tôi mới hiểu tại sao ông không nghe rõ yêu cầu của tôi suốt 3 tháng qua!”.

Trên đường sang Paris tôi được nghe cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ thông báo với Liên Xô: "Việt Nam đã thắng cú đúp, Mỹ chấm dứt ném bom và Mặt trận Dân tộc Giải phóng dự Hội nghị 4 bên”. Trong khi dư luận quốc tế và cả Mỹ đón mừng, thành viên hai đoàn Việt Nam và Mỹ ở Paris tích cực gặp gỡ chuẩn bị cho Hội nghị chính thức 4 bên.

Tôi cũng được tham gia những cuộc gặp tay đôi Việt-Mỹ mang tính khá xây dựng. Kể cả sau này, khi Cyrus Vance, Phó đoàn Mỹ làm Ngoại trưởng cũng mời đối tác cũ là Đại sứ Hà Văn Lâu tại Liên hợp quốc và phu nhân đến chơi, dùng bữa với vợ chồng ông tại nhà riêng ở New York.

Ngày 4/11/1968, đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu đến Paris được đón tiếp nhiệt tình chưa từng có. Báo chí Pháp đưa tin “Bà Hoàng Việt cộng đã đến Paris”. Chính quyền Sài Gòn “nóng mặt” gây chuyện đòi xếp bàn hội nghị không phải 4 bên mà là hình chữ nhật thành hội nghị 2 bên.

Thương lượng giằng co về hình dáng bàn Hội nghị đến ngày 25/1/1968, Hội nghị 4 bên mới họp được xung quanh chiếc bàn tròn to. Đoàn Mỹ và Sài Gòn ngồi dính vào nhau bên nửa chiếc bàn, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng mỗi đoàn ngồi 1/4 bàn còn lại.

Ngày 1/1/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc Tết với phương châm chiến lược:

“Vì Độc lập, vì Tự do,

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Và sách lược cho hai Đoàn phía ta tại Hội nghị Paris:

“Tuy hai mà một, tuy một mà hai”.

Bộ trưởng Xuân Thủy đã vận dụng tối ưu phương châm này.

Trong khi đoàn Sài Gòn chỉ nhìn về phía đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà phát biểu, Bộ trưởng Xuân Thủy đều nhường bà Bình phát biểu trước và đưa ra những lập trường giải pháp 10 điểm, 8 điểm, 7 điểm và 2 điểm.

Đoàn Sài Gòn chỉ muốn bắt tay đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng Bộ trưởng Xuân Thủy đều nhường bà Bình đi trước, đoàn Sài Gòn phải lùi lại tránh gặp đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Trong đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời có cả bà Trần Duy Liên và Nguyễn Thị Chơn, những chiến sĩ Mặt trận Giải phóng từng ở nhà tù Sài Gòn sang tham gia Hội nghị Paris. Phía Sài Gòn cũng cố đưa Luật sư Nguyễn Thị Vui tham gia đoàn.

Trong khi đoàn Sài Gòn thế yếu thường hằn học phát biểu, Bộ trưởng Xuân Thủy bản lĩnh cao, điềm tĩnh phát biểu vừa sâu sắc vừa hài hước, làm Nguyễn Thị Vui bật cười. Tôi làm biên bản hội nghị rất thích được ghi những đối đáp sắc sảo, tài tình của Bộ trưởng Xuân Thủy.

Riêng cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ sau khi dự phiên khai mạc về nói với tôi “mình nghe đoàn Ngụy nói tức không chịu được” và sau đó ông tập trung vào cuộc gặp riêng với Mỹ, không dự thêm phiên họp công khai nào nữa.

Trong khi đó, đoàn Sài Gòn chỉ muốn bắt chuyện với đoàn miền Bắc. Một lần trên thang máy, tôi gặp 2 người mới từ Sài Gòn sang, tìm cách bắt chuyện với tôi, khen: “Ông trẻ quá”.

Tôi đáp “ông đánh giá tôi thấp quá”. Họ vội vàng thanh minh không có ý xấu.

Sau khi ký kết, Bộ trưởng Xuân Thủy cử tôi và anh Nguyễn Minh Thông dự chiêu đãi chính thức của đoàn Sài Gòn, họ đưa chúng tôi đi giới thiệu với mọi người nhưng lại bao vây chất vấn bà Bình. Chúng tôi tỏ thái độ và bỏ ra về sớm.

Đại sứ Phạm Ngạc (ngoài cùng bên trái) đã trưởng thành khi được làm việc dưới sự chỉ đạo, động viên chân tình của cố Bộ trưởng Xuân Thủy. (Ảnh: NVCC)

"Người thầy" Xuân Thủy

Chúng tôi đặc biệt tự hào và học tập cách giao tiếp của Bộ trưởng Xuân Thủy. Nhiều Việt kiều nhất là nữ giới ca ngợi phong thái của Bộ trưởng, đặc biệt là nụ cười tươi, ăn ảnh, lịch thiệp, quần áo luôn hợp thời trang, quan tâm tới tất cả mọi người.

Tôi rất thích dịch cho Bộ trưởng trong các buổi tiếp khách và hình như ông cũng thích tôi cùng dự. Thậm chí trong buổi chiêu đãi của đoàn sau ký Hiệp định, ông chỉ định tôi và anh Thông (phiên dịch tiếng Pháp) đứng cùng ông đón các đoàn khách đến chúc mừng.

Hôm đó, tôi chứng kiến sự nhiệt tình của khách đối với ông và Việt Nam. Chúng tôi đau cả tay nhưng vẫn thấy ông luôn giữ được nụ cười rất tươi với mọi thành phần khách đến. Tôi thán phục việc Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn ông làm trưởng đoàn chăm lo cho cả hai đoàn đặc biệt là đoàn miền Nam.

Tuy khí hậu và bệnh hen hành hạ ông, ông vẫn xuống sân và nhà ăn đánh cờ và ném bi sắt với anh em phục vụ Pháp và Việt. Ông hay thức khuya sửa bài phát biểu, trong khi chúng tôi dịch xong và đi ngủ. Sáng hôm sau lại thấy ông sửa thêm cho hay hơn, chúng tôi rất thích như vậy vì học được sự tinh túy của ngôn ngữ ngoại giao.

Ông cũng quan tâm đến hoàn cảnh của mọi người nhất là chị em phụ nữ cả hai đoàn về sức khỏe và điều kiện sinh hoạt. Ông chỉ thị cho đoàn cấp thêm chi phí để chị em được mua sắm đầy đủ hơn.

Riêng tôi là người liên lạc với đoàn Mỹ và Sài Gòn, ông bảo: "Cậu được quyền thì nên tiếp xúc với họ nhiều hơn”. Thấy tôi phải thức trắng đêm làm biên bản sau các cuộc gặp riêng với Mỹ để sáng đoàn xem và đi đàm phán tiếp, có lần quá mệt tôi không thể lên máy bay làm nốt biên bản và lỡ dịp về thăm vợ con, ông an ủi tôi “tiếc thì việc đã rồi”.

Lần sau tôi được về, ông hỏi thăm gia đình tôi đang ở nơi sơ tán và động viên khen con trai tôi “là thần đồng”.

Liên Xô và Trung Quốc có thái độ khác nhau về Hội nghị Paris. Liên Xô ủng hộ đàm phán nên giúp chuyên cơ và lắp ăng-ten liên lạc thẳng về Hà Nội. Trung Quốc không ủng hộ đàm phán. Bộ trưởng Xuân Thủy cử tôi (có kinh nghiệm 6 năm công tác tại Đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh) và một chuyên viên đến Đại sứ quán Trung Quốc thông báo tình hình. Ngày Tết ông lại mời toàn bộ Đại sứ quán Trung Quốc đến liên hoan tại phái đoàn Việt Nam.

Sau Hội nghị Paris, Bộ trưởng Xuân Thủy cũng rất chu đáo ký kỷ niệm chương tặng tất cả thành viên hai đoàn Nam, Bắc. Ông quyết định nhận chị Tôn Nữ Thị Ninh về công tác ở Ban Đối ngoại Trung ương và một thời gian sau đó chuyển sang Bộ Ngoại giao.

Tôi rất may mắn được làm việc dưới sự chỉ đạo, động viên chân tình của Bộ trưởng Xuân Thủy. Tiếp sau đó lại được Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch rèn luyện tại các cuộc gặp riêng với Mỹ ở Paris và gần 20 năm đấu tranh tại Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Tôi trưởng thành và đã “đứng mũi chịu sào” thu nhận và góp phần đào tạo nhiều cán bộ ngoại giao xuất sắc tiếp nối phát triển nền Ngoại giao Hồ Chí Minh tỏa sáng trong quan hệ quốc tế phức tạp chưa từng có như hiện nay.