📞
73 năm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946-19/12/2019):

Không còn sự lựa chọn nào khác (kỳ cuối)

Đại sứ Hoàng Vĩnh Thành * 08:00 | 18/12/2019
TGVN. Sau cuộc xung đột vũ trang tại Hải Phòng tháng 11/1946, quân Pháp tiếp tục những hành động gây hấn nghiêm trọng ở Hà Nội trong tháng 12/1946. Trên thực tế, quân đội Pháp đã mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược từ nửa phần phía Nam của đất nước ra toàn cõi Việt Nam, đồng thời ra toàn bán đảo Đông Dương. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận định rằng, nhân dân Việt Nam không còn sự lựa chọn nào khác là phải kiên quyết đứng lên đánh trả đích đáng quân Pháp xâm lược.
Quyết tử quân ôm bom ba càng sẵn sàng lao vào chiến xa địch ở Hà Nội 1946. (Ảnh tư liệu)

Trưa ngày 23/11/1946, trước hành động leo thang chiến tranh của quân Pháp ở Hải Phòng, trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Hồ Chủ tịch trực tiếp kêu gọi Đại tướng Valluy, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, quyền Cao ủy, đình chỉ việc đổ máu giữa người Pháp và người Việt, đồng thời kêu gọi toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh, các bộ đội và tự vệ phải sẵn sàng bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của ngoại kiều.

Trong khi đó, cuộc xung đột vũ trang ở Hải Phòng đem lại cho D’Argenlieu cơ hội tốt. Hành động xâm lược trắng trợn của quân Pháp được viên Cao ủy trình bày như bằng chứng về việc người Việt Nam dùng sức mạnh để đẩy người Pháp đi. Báo chí phái hữu ở Pháp lập tức làm rùm beng: Quân đội viễn chinh Pháp một lần nữa là nạn nhân của âm mưu Việt Minh! Cần phải có chính sách cứng rắn thay thế cho chính sách thỏa hiệp, rút lui…

Ngày 23/11/1946, Hội đồng liên bộ về Đông Dương thuộc Chính phủ Pháp, do cựu Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne đứng đầu, được triệu tập để nghe Cao ủy D’Argenlieu báo cáo về tình hình Đông Dương. Sau đó, Hội đồng quyết định khi cần có thể dùng đến sức mạnh để đối phó với sự vi phạm các thỏa hiệp. D’Argenlieu lập tức thông báo cho Valluy là đường lối chính trị cứng rắn ở Đông Dương đã được Chính phủ Pháp và tất cả các đảng phái tán thành.

Tiếp tục các biện pháp hòa bình

Ngày 2/12/1946, Jean Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Việt Nam đến Hà Nội. Thực tế, Sainteny đã từ Paris đến Sài Gòn từ ngày 26/11, nhưng ông ta được Tướng Valluy yêu cầu ở lại Sài Gòn cho tới sau khi cuộc xung đột ở Hải Phòng kết thúc. Thông qua Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám, Sainteny đề nghị được gặp Hồ Chủ tịch.

Chiều tối ngày 3/12/1946, tại Bắc Bộ Phủ, dù đang ốm mệt, Hồ Chủ tịch vẫn tiếp Jean Sainteny, Ủy viên Cộng hòa Pháp. Hai bên đã trao đổi ý kiến về việc thực hiện nội dung của Tạm ước 14/9/1946, tìm biện pháp làm giảm bớt tình hình ngày càng căng thẳng trong quan hệ Việt Nam - Pháp.

Ngày 6/12/1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Quốc hội Pháp: “... Tôi thiết tha kêu gọi Quốc hội và Chính phủ Pháp nghĩ đến lợi quyền chung tối cao của hai dân tộc Pháp, Việt, hạ lệnh cho đương cục Pháp khôi phục tình hình trước ngày 20/11/1946, để cùng chính phủ Việt Nam thi hành Tạm ước, để xây đắp sự cộng tác Pháp - Việt thân thiện và lâu dài”.

Hai ngày sau khi ông Léon Blum thắng cử trở thành Chủ tịch Chính phủ Pháp mới, ngày 15/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi một bức thông điệp tới ông Léon Blum, nhắc lại lập trường cơ bản của Chính phủ Việt Nam và đề ra một số điều cụ thể để giải quyết tình hình bế tắc trước mắt. Thế nhưng, giống như tất cả bức điện khác của Hồ Chủ tịch gửi Chính phủ Pháp trước đó, bức điện lần này bị Bộ chỉ huy quân đội Pháp giữ lại ở Sài Gòn và chỉ được chuyển về tới Paris ngày 26/12/1946 (tức là 11 ngày sau đó), khi đó cuộc chiến tranh Việt Nam - Pháp đã lan rộng.

Ba bức tối hậu thư…

Từ giữa tháng 12/1946, các cuộc khiêu khích, gây hấn của quân Pháp ở Hà Nội tăng lên dồn dập. Ngày 15/12/1946, quân Pháp nổ súng vào tự vệ và công an Việt Nam ở các phố Hàng Đậu, Hàm Long, Trần Quốc Toản trong nội thành Hà Nội.

Ngày 17/12/1946, quân Pháp gây ra vụ thảm sát đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún, Nguyễn Trường Tộ.

Cuối giờ làm việc sáng ngày 18/12/1946, Trưởng ty Liên Kiểm Pháp ở Hà Nội chuyển cho Liên Kiểm Việt Nam bức tối hậu thư thứ nhất của Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Hà Nội, nội dung như sau:

“Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở đây sẽ bắt buộc phải dùng những phương tiện để bảo đảm sự an toàn của quân đội, của thường dân Pháp và của ngoại kiều. Vì vậy, Bộ chỉ huy Pháp sẽ đem quân đến đóng ở Sở Tài chính (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao) và nhà viên giám đốc giao thông ở đường Pasquier (nay là đường Điện Biên Phủ). Những gì có thể làm cản trở sự đi lại của quân đội Pháp sẽ phải phá hủy nếu không thì quân đội Pháp sẽ tự phá lấy”.

Cuối giờ làm việc chiều 18/12/1946, Liên Kiểm Pháp chuyển cho Liên Kiểm Việt Nam tối hậu thư thứ hai: “Trong ngày 18/12/1946, công an thành phố Hà Nội đã không làm tròn nhiệm vụ. Nếu tình trạng đó kéo dài thì quân đội Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội chậm nhất là vào sáng ngày 20/12/1946”.

Liên Kiểm ta lập tức trả lời phía Pháp: “Cái cớ bảo rằng công an Việt Nam không làm tròn nhiệm vụ là hoàn toàn vu khống. Quân đội Pháp không thể vin vào cớ ấy để phạm đến quyền trị an của chúng tôi, quyền tối cao của nước Việt Nam tự do”.

Sáng sớm ngày 19/12/1946, Chính phủ ta nhận được tối hậu thư thứ ba của Bộ chỉ huy quân đội Pháp. Yêu cầu của phía Pháp đặt ra là: “Phải tước vũ khí của tự vệ tại Hà Nội; Phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến; Phải trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố”.

Những gì xảy ra ở Hải Phòng hồi hạ tuần tháng 11/1946 đang lặp lại ở Hà Nội. Tại Hải Phòng, Đại tá Dèbes, Tư lệnh quân Pháp, nêu ra cho phía Việt Nam một số điều kiện mà chúng biết chắc chắn là phía ta không thể nào chấp nhận trước khi chúng mở cuộc tấn công chiếm thành phố.

…và giọt nước tràn ly

Sáng ngày 19/12/1946, sau khi nhận được tối hậu thư thứ ba trong vòng hai ngày của Bộ chỉ huy quân đội Pháp đòi phía Việt Nam nộp vũ khí và quân Pháp sẽ chịu trách nhiệm duy trì an ninh, trật tự ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư cho Jean Sainteny, đề nghị ông ta cùng Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám đàm phán tìm kiếm giải pháp làm giảm tình hình căng thẳng ngày càng tăng lên.

Hồ Chủ tịch trao bức thư cho ông Hoàng Minh Giám. Sáng ngày 19/12/1946, Liên Kiểm Việt Nam báo cho Liên Kiểm Pháp, Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám yêu cầu gặp Ủy viên Sainteny ngay buổi chiều cùng ngày. Tuy nhiên, Sainteny đã khước từ đề nghị và chỉ đồng ý gặp ông Hoàng Minh Giám vào ngày hôm sau. Ngày 20/12/1946 chính là ngày quân đội Pháp nói họ sẽ tự mình đảm nhiệm trị an ở Hà Nội.

Trước tình hình căng thẳng trong quan hệ Việt Nam–Pháp đã đến đỉnh điểm, trong hai ngày 18-19/12/1946, tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Hội nghị đánh giá thời kỳ hòa hoãn giữa Việt Nam và Pháp đã qua, chúng ta không thể nhân nhượng đối phương thêm và quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi toàn quốc.

20 giờ 3 phút ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước bắt đầu tại Hà Nội. Ngày 20/12/1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ngày 19/12/1946, trong đó có đoạn: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!...

Bản chụp Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch. (Ảnh tư liệu)

Tuy chưa thật đầy đủ, và về thời gian cũng chỉ là một phân kỳ ngắn trong quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Pháp từ ngày hai bên ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 đến 19/12/1946, diễn biến nêu trên trong quan hệ Việt Nam - Pháp ở nước ta trong 60 ngày từ ngày 18/10/1946 đến ngày 19/12/1946, đã cho thấy sự đối lập rõ rệt trong thái độ của hai phía.

Một phía là cố gắng ngoại giao liên tục, kiên trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thể hiện thiện chí hòa bình cao nhất, tận dụng mọi cơ hội có thể để tiến hành đối thoại nhằm đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đổ máu cho cả hai dân tộc Việt Nam và Pháp.

Phía bên kia là mưu toan và hành động khiêu khích gây chiến trắng trợn, cố tình đẩy tình hình tới mức bùng nổ của những người cầm đầu chính quyền Pháp ở Đông Dương, những kẻ mù quáng theo đuổi giấc mộng áp đặt lại ách thống trị thực dân lỗi thời lên dân tộc Việt Nam.

Từ tối 19/12/1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 3.000 ngày, từng bước đánh bại mọi chiến lược, âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của thực dân Pháp xâm lược, tiến tới chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân Pháp, báo hiệu sự cáo chung của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới.

* Nguyên Chánh Văn phòng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Australia