📞

Nam Phi và bài học còn mãi từ Việt Nam

17:55 | 02/12/2018
Trải qua hai cuộc kháng chiến khốc liệt, vượt khó để cải tổ, xây dựng mô hình kinh tế phát triển cùng vị thế quốc tế ngày một vững mạnh, Việt Nam xứng đáng là hình mẫu tiêu biểu để Nam Phi học tập.

Gác lại quá khứ, hướng tới tương lai

Đó là một trong số nhiều nguyên liệu chính làm nên “phép màu” kinh tế của người Việt Nam.

Khoảnh khắc chiếc xe tăng T-59 mang số hiệu 390 do Đại úy Vũ Đăng Toàn chỉ huy húc đổ cổng Dinh Độc Lập và tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh vang vọng khắp Sài Gòn đã khép lại chương hào hùng nhưng cũng đầy đau thương trong lịch sử Việt Nam, mở đường cho một trang sử mới của quốc gia này.

Nhưng vạn sự khởi đầu nan – 25 năm sau giải phóng, GDP đầu người của Việt Nam chỉ đạt mức 94 USD. Những sai sót trong chính sách, quản lý và xây dựng nền kinh tế, bị bao vây, cấm vận cùng sự sụp đổ của đồng minh Liên Xô khiến nhiều người bi quan về tương lai của Việt Nam.

May mắn thay, Chính sách Đổi mới đã thay đổi tất cả. Tăng trưởng kinh tế liên tiếp đạt mức trung bình 6% kể từ năm 1992. Làng mạc hay thành phố đã thay da đổi thịt cùng nhiều thành tích kinh tế đáng nể. Sài Gòn năm xưa, nay là Thành phố Hồ Chí Minh, trở thành một trong những đầu tàu kinh tế của cả nước, với tốc độ phát triển đạt trung bình 9,6% kể từ năm 2010.

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đầu tàu về phát triển kinh tế của Việt Nam. (Ảnh: PetroTimes)

Thành công của Việt Nam đến từ hai nguyên nhân chủ đạo. Đầu tiên, Việt Nam đã gác lại quá khứ đau thương sau nhiều năm kháng chiến với mất mát hơn 3 triệu người. Quan trọng hơn, Việt Nam nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hội nhập, trở thành thành viên của cộng đồng quốc tế, mở rộng hợp tác và quan hệ với các nước. Những thay đổi này đã mang đến một cuộc “cách mạng” về cách nhìn nhận quan hệ giữa Việt Nam và các nước. Ví dụ tiêu biểu nhất có thể kể đến là tiến triển vượt bậc trong quan hệ Việt – Mỹ.

Sau năm 1975, chính phủ Việt Nam đã thành lập “Nhà trưng bày tội ác Mỹ - Ngụy”. Sau khi quan hệ Việt – Mỹ có biến chuyển vào năm 1990, bảo tàng này đã được đổi tên thành “Nhà trưng bày tội ác chiến tranh xâm lược”. Một tuần trước khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, bảo tàng này lại đổi tên thành “Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh” như ngày nay.

Từ năm 2007, tàu chiến Mỹ đã thường xuyên ghé thăm các cảng Việt Nam. Ngày nay, Quân đội Việt Nam và Mỹ thường xuyên tiến hành tập trận chung. Riêng năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã hai lần thăm Việt Nam; lần gần đây nhất vào tháng 10, khi ông tới thăm Sân bay Biên Hòa nằm ở ngoại ô TP. HCM để khẳng định cam kết của Mỹ trong việc xử lý tàn dư chất độc màu da cam.

Quan hệ kinh tế hai nước cũng đạt được nhiều thành tựu rõ rệt. Năm 1995, kim ngạch thương mại hai chiều Việt – Mỹ đạt mức 451 triệu USD, song chỉ sau 23 năm phát triển, con số này đã lên tới 45 tỷ USD, với Mỹ tiếp tục là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.

Tiếp thu bài học quý

Với những thành tựu như vậy, Việt Nam đã và đang tiếp tục là hình mẫu của nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Nam Phi. Trên thực tế, cuộc kháng chiến chống xâm lược của người dân Việt từng trở thành nguồn cảm hứng của đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC).

Năm 1978, đối mặt với sự cạnh tranh từ Phong trào Ý thức Da màu (BCM), Inkatha và Phong trào Sinh viên Nam Phi, trong khi phe chủ chiến của ông Umknonto we Sizwe chưa xây dựng được vị thế quân sự, Moscow đã khuyên ANC thăm Việt Nam để học hỏi kinh nghiệm từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cách tiến hành “chiến tranh nhân dân”.

Tháng 10/1978, đoàn đại biểu dẫn đầu bởi cố Chủ tịch ANC Oliver Tambo đã tới thăm và dành hai tuần tại Hà Nội. Họ đã “vô cùng ấn tượng trước cách mà người Việt Nam thực hiện chiến tranh du kích dưới lòng đất”. Những đại biểu này cũng học được rằng một cuộc cách mạng cần “đi bằng hai chân, với quân sự và chính trị song hành.”

Bài học Việt Nam dạy cho họ rằng nếu như muốn lật đổ chế độ Apartheid, ANC cần giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, giới truyền thông và giới trẻ, nhằm xây dựng một phong trào chính trị có thể thách thức sự kiểm soát của Quân đội Nam Phi.

Cố Chủ tịch ANC Oliver Tambo đã dẫn đầu đoàn đại biểu tới thăm Việt Nam vào năm 1978. (Nguồn: Have You Heard from Johannesburg)

Chuyến thăm Việt Nam năm 1978 của đoàn đại biểu ANC mang ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với lịch sử của ANC nói riêng và Nam Phi nói chung. Nó diễn ra vào khoảnh khắc giao thời của ANC: hoặc tiếp tục đi trên con đường đấu tranh vũ trang và bạo loạn (nhiều khả năng sẽ thất bại), hoặc trở thành một tổ chức đa sắc tộc và thống nhất hơn. Nó cũng đánh dấu khởi đầu của “Chiến tranh nhân dân”, khi ANC thay thế chủ trương xung đột vũ trang trong những năm 1960 – 1970 bằng việc thực hiện những nỗ lực chính trị mang tính chiến lược và có tổ chức hơn.

Nếu như ANC đã từng học hỏi từ Việt Nam trong quá khứ và thành công, tại sao không lặp lại điều đó một lần nữa?

Nếu như tới thăm Việt Nam một lần nữa, họ sẽ một lần nữa kinh ngạc bởi sự chuyển mình của đất nước Đông Nam Á, nơi tầng lớp lãnh đạo chú trọng nâng cao Năng suất các Nhân tố Tổng hợp (TFP) và khả năng thích ứng của thể chế, tạo không gian và cung cấp bảo đảm cần thiết cho các nhà đầu tư tham gia vào quá trình phát triển.

Quan trọng hơn, những nhà hoạch định chính sách Việt Nam nhận thức rõ rằng chính phủ cần giảm thiểu vai trò trong nền kinh tế. Theo tác giả David Lamb, kết quả này là một sự “pha trộn giữa Karl Marx và Adam Smith trong lĩnh vực kinh tế” và được thể hiện rõ qua các chính sách của Việt Nam như tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, mở sàn chứng khoán và đẩy mạnh sản lượng xuất khẩu.

Nông sản Việt Nam đã xuất khẩu đến 180 nước và vùng lãnh thổ, đồng thời luôn nằm trong số 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới. (Ảnh: Vuông Tròn)

Tướng Giáp mất năm 2013, thọ 102 tuổi. Sự ra đi của người anh hùng dân tộc ấy đánh dấu một sự chuyển mình của Việt Nam, khi nhiều nhà lãnh đạo thời chiến năm xưa dần được thay thế bằng những người trẻ tuổi hơn, khao khát xây dựng một Việt Nam phồn thịnh và phát triển, chứ không đơn thuần chỉ là bảo vệ chế độ và duy trì tự chủ chính trị.

80% dân số Việt Nam chưa bao giờ phải kinh qua mưa bom bão đạn như cha ông, song trong thời đại yên bình này, họ cũng có cuộc chiến của riêng mình, nhằm tận hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn. Nếu như thế hệ trước đổ xương máu để giành độc lập trước người Pháp và người Mỹ, thế hệ sau của họ đang đổ từng giọt mồ hôi đóng góp công sức đưa nền kinh tế đất nước sánh vai với cường quốc năm châu trong kỷ nguyên kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Quan niệm thông thường cho rằng tăng trưởng của Việt Nam đến từ cung cầu và nhân công giá rẻ không phản ánh chính xác những lựa chọn chính sách khó khăn của quốc gia này trong khúc giao thời nhiều chông gai. Nó cũng chỉ ra rằng dù mục tiêu độc lập có quan trọng đến đâu, thì xây dựng một đất nước phát triển, thỏa mãn ước vọng của những con người chiến đấu vì nền độc lập đó, cũng quan trọng không kém.   

Nghiên cứu kỹ thành công của Việt Nam có thể giúp ANC đưa ra quyết định sáng suốt hơn nhằm giải quyết khó khăn, trước mắt là cải thiện quan hệ với các quốc gia khác, đặc biệt là Mỹ. Lenin từng nói: “Học, học nữa, học mãi” và người Việt Nam, với tinh thần hiếu khách, luôn sẵn sàng đón tiếp ANC, dù đó là 40 năm trước hay 40 năm sau.

(theo The Diplomatic Society)